Hình ảnh vệ tinh cho thấy thành phố cổ vừa được phát hiện. Ảnh: Youtube
Ngọn núi dưới nước cao nhất trên Trái đất
Chúng ta đều biết đỉnh Everest là ngọn núi cao nhất thế giới. Tuy nhiên, ngọn núi dưới nước có tên Mauna Kea còn cao hơn Everest rất nhiều. Điểm khác biệt là nó mọc lên từ đáy đại dương và đỉnh của nó là điểm cao nhất ở Hawaii.
Đỉnh Everest cao khoảng 8.848 m, trong khi Mauna Kea là 10.210 m.
Các thông tin khác về Thái Bình Dương
Sau đây là một vài thông tin thú vị về Thái Bình Dương mà bạn có thể chưa biết:
Rãnh Mariana là rãnh sâu nhất Thái Bình Dương
Ngoài việc là đại dương sâu nhất thế giới, Thái Bình Dương còn có rãnh sâu nhất là rãnh Mariana, điểm sâu nhất được gọi là Vực Challenger. Rãnh Mariana sâu 11.034 m, cao hơn cả đỉnh Everest. Được cho là hình thành cách đây 180 triệu năm, rãnh Mariana trở thành một trong những đáy biển lâu đời nhất.
Ngôi nhà của “Point Nemo” – nghĩa địa của tên lửa và vệ tinh
Nam Thái Bình Dương là nơi xa xôi nhất trên Trái đất, xa hơn so với bất kỳ vùng đất nào khác và được biết đến với cái tên Point Nemo hay là Cực đại dương không thể tiếp cận. Để đến đó người ta phải di chuyển hơn 2.685 km, điều đó khiến Point Nemo trở thành nơi xa xôi, khắc nghiệt và không có người ở nhất trên Trái đất.
Vì lý do đó, khu vực này được các cơ quan vũ trụ quốc tế sử dụng làm “nghĩa địa không gian” cho tên lửa, vệ tinh hoặc tàu chở hàng khi chúng không còn hữu dụng.
Thái Bình Dương có hệ thống rạn san hô rộng lớn nhất thế giới, rạn san hô Great Barrier. Đó là một nơi tuyệt đẹp nằm ở bờ biển phía đông bắc của Australia. Rạn san hô này trải dài 2.300 km và được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1981. Nó có khoảng 2500 rạn san hô với 400 loại san hô khác nhau.
Thái Bình Dương rộng bao nhiêu?
Thái Bình Dương trải dài từ Bắc Băng Dương ở phía bắc tới châu Nam Cực ở phía nam. Chiều rộng đông – tây đoạn rộng nhất lên tới 19.800 km, ngăn cách châu Á, châu Đại Dương với châu Mỹ.
Với diện tích 165.250.000 kilômét vuông (63.800.000 dặm vuông Anh) (nếu được định nghĩa với biên giới phía nam là Nam Cực), phân vùng lớn nhất này của Đại dương Thế giới
Đại dương này chiếm tới 1/3 tổng diện tích bề mặt địa cầu. Toàn bộ phần đất liền trên Trái Đất cộng lại (khoảng 150 triệu km2) vẫn chưa thể phủ kín bề mặt vùng đại dương này.
Độ sâu trung bình của Thái Bình Dương là 4.000 mét (13.000 foot). Vực thẳm Challenger in the Rãnh Mariana, nằm ở tây bắc Thái Bình Dương, là điểm sâu nhất trên thế giới được biết đến, đạt độ sâu 10.928 mét (35.853 foot).
Đây cũng là điểm sâu nhất của lớp vỏ Trái Đất, gấp 13 lần chiều cao của tháp Burj Khalifa – tòa nhà cao nhất thế giới ở Dubai. Nếu có thể đặt Everest xuống đáy của rãnh Mariana, đỉnh núi cao nhất thế giới này vẫn lọt thỏm bên dưới Thái Bình Dương.
Thái Bình Dương cũng chứa điểm sâu nhất ở Bán cầu Nam – Vực thẳm Horizon ở Rãnh Tonga – tại độ sâu 10.823 mét (35.509 foot). Điểm sâu thứ ba trên Trái Đất, Vực thẳm Sirena, cũng nằm trong Rãnh Mariana.
Thái Bình Dương cũng có thể được phân chia không chính thức theo Đường đổi ngày quốc tế thành Đông Thái Bình Dương và Tây Thái Bình Dương, cho phép nó được tiếp tục phân chia thành bốn phần tư
Cụ thể là Đông Bắc Thái Bình Dương ngoài khơi Bắc Mỹ, Đông Nam Thái Bình Dương ngoài khơi Nam Mỹ, Tây Bắc Thái Bình Dương ngoài khơi Viễn Đông châu Á, và Tây Nam Thái Bình Dương xung quanh châu Đại Dương.
Tây Thái Bình Dương có nhiều vùng biển cận biên lớn, bao gồm Biển Philippines, Biển Đông, Biển Hoa Đông, Biển Nhật Bản, Biển Okhotsk, Biển Bering, Vịnh Alaska, Mar de Grau, Biển Tasman, và Biển San Hô.
Với diện tích 165.250.000 kilômét vuông (63.800.000 dặm vuông Anh) (nếu được định nghĩa với biên giới phía nam là Nam Cực), phân vùng lớn nhất này của Đại dương Thế giới và của thủy quyển bao phủ khoảng 46% bề mặt nước của Trái Đất và khoảng 32% tổng diện tích bề mặt của nó, lớn hơn toàn bộ diện tích đất của Trái Đất cộng lại – 148.000.000 km2 (57.000.000 dặm vuông Anh).Tâm của cả Bán cầu Nước và Bán cầu Tây, cũng như cực không thể tiếp cận của đại dương, đều ở Thái Bình Dương.
Nơi có 25.000 hòn đảo và đảo san hô lớn và nhỏ
Có ba nhóm đảo lớn tại đây: Melanesia, Polynesia và Micronesia. Nhiều quốc đảo lớn nằm ở Thái Bình Dương, bao gồm Indonesia, quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới. Các quốc đảo khác là Nhật Bản, New Zealand và Philippines.
Tên gọi Thái Bình Dương từ đâu?
Vào đầu thế kỷ thứ 16, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Vasco Núñez de Balboa đã băng qua eo đất Panama vào năm 1513 và nhìn thấy “Biển phương Nam” rộng lớn mà ông đặt tên là Mar del Sur (trong tiếng Tây Ban Nha).
Sau đó, tên hiện tại của đại dương này được đặt bởi nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan trong chuyến hành trình vòng quanh thế giới của Tây Ban Nha vào năm 1521, khi mà ông bắt gặp những cơn gió thuận lợi khi đến đại dương.
Ông gọi nó là Mar Pacífico, trong cả tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha đều có nghĩa là ‘biển thái bình‘.
Lịch sử khám phá Thái Bình Dương
Các dấu mốc khám phá Thái Bình Dương đa được ghi lại:
Các cuộc di cư quan trọng diễn ra vào thời tiền sử. Khoảng năm 3000 trước công nguyên, những người Austronesia trên đảo Đài Loan đã làm chủ được những chuyến đi đường dài bằng xuồng và họ đã truyền bá bản thân và ngôn ngữ của mình xuống phía nam đến Philippines, Indonesia, và Đông Nam Á hải đảo; về phía tây đến Madagascar; pjhía đông nam đến New Guinea và Melanesia; và phía đông đến quần đảo Micronesia, châu Đại Dương và Polynesia.
Thương mại đường dài phát triển dọc khắp các vùng duyên hải từ Mozambique đến Nhật Bản. Hoạt động buôn bán, đi kèm với đó là tri thức, đã vươn tới quần đảo Indonesia nhưng có vẻ như chưa đến Úc.
Ít nhất vào khoảng năm 878, thời điểm xuất hiện một khu người Hồi giáo định cư ở Quảng Châu, hoạt động thương mại khi đó đa phần nằm dưới sự kiểm soát của người Hồi giáo và Ả rập.
Lần tiếp xúc đầu tiên của những nhà thám hiểm châu Âu với rìa Tây Thái Bình Dương là chuyến đi của đoàn thám hiểm người Bồ Đào Nha đến quần đảo Maluku vào năm 1512 do António de Abreu và Francisco Serrão dẫn đầu
Cuộc thám hiểm Malaspina là một trong những chuyến hành trình khám phá khoa học đầu tiên do người Tây Ban Nha thực hiện từ 1789 đến 1794. Họ đã đi qua hầu khắp Thái Bình Dương, từ Cape Horn tới Alaska, Guam, Philippines, New Zealand, Úc, và Nam Thái Bình Dương.
Sự lớn mạnh của chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn thế kỷ XIX dẫn đến việc hầu khắp châu Đại Dương trở nên chịu sự chiếm đóng của các cường quốc châu Âu, và tiếp sau đó là Mỹ và Nhật Bản.
Kho tri thức về hải dương học được đóng góp đáng kể nhờ các chuyến hành trình của tàu HMS Beagle có sự tham gia của Charles Darwin vào thập niên 1830; của tàu USS Tuscarora (1873–76); và tàu Gazelle của Đức (1874–76).
Tuy nhiên, Nhật đã thất bại trong cuộc chiến, dẫn tới thế độc tôn của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ trên đại dương này. Kể từ sau Thế Chiến thứ Hai, rất nhiều thuộc địa trước đây ở Thái Bình Dương đã trở thành các quốc gia độc lập.
Thái Bình Dương đang co lại 2,5 cm mỗi năm
Do sự dịch chuyển của tầng địa chất, Thái Bình Dương đang co lại 2,5 cm mỗi năm, trong khi kích thước của Đại Tây Dương tăng 2,5 cm mỗi năm. Hiện tượng này xảy ra ở ba phía của lưu vực Thái Bình Dương
Trên đây là thông tin về Thái Bình Dương là gì do Epacket Việt Nam đã tổng hợp và gửi tới các bạn. Hy vọng qua nội dung trên sẽ giúp bạn có câu trả lời cho Thái Bình Dương nằm ở đâu? rộng bao nhiêu?
Nếu quan tâm tới các thông tin địa lý khác thì hãy đón đọc bài viết của chúng tôi nhé!
Các tiểu bang Thái Bình Dương (tiếng Anh: Pacific States) hình thành một trong chín phân vùng điều tra dân số của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ.
Có năm tiểu bang trong phân vùng này là: Alaska, California, Hawaii, Oregon, Washington — và như cái tên của chúng, tất cả các tiểu bang này đều có bờ biển nằm trên Thái Bình Dương (và là các tiểu bang duy nhất có ranh giới với đại dương). Ngoài ra, Nevada và Arizona đôi khi được tính vào vùng này mặc dù sự thật là cả hai tiểu bang này đều không có ranh giới với Thái Bình Dương. Điều đơn giản là vì mối liên hệ chặt chẽ của hai tiểu bang này cũng như các vùng đô thị của chúng với California lân cận. Phân vùng này là một trong hai phân vùng nằm bên trong vùng điều tra dân số lớn hơn của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ là vùng Tây Hoa Kỳ. Phân vùng kia là Các tiểu bang miền Núi.
Mặc dù được Cục Điều tra Dân số xếp vào chung một vùng, phân vùng Thái Bình Dương và phân vùng miền Núi rất khác nhau xa theo nhiều khía cạnh quan trọng, đặc biệt nhất là trong lãnh vực chính trị. Trong khi gần như tất cả các tiểu bang miền Núi được xem là "các tiểu bang đỏ" bảo thủ thì tất cả các tiểu bang Thái Bình Dương, trừ Alaska, rõ ràng được xem là nằm trong số "các tiểu bang xanh" cấp tiến. Thật vậy, một phân vùng khác nữa mà người dân của các tiểu bang Thái Bình Dương được xem là có quan hệ gần gũi nhất về chính trị là phân vùng Tân Anh Cát Lợi.
Duyên hải Tây Bắc của đầu và giữa thế Holocene thời tiền sử bao gồm ven biển Thái Bình Dương từ cửa sông Copper ở Alaska đến sông Klamath ở bắc California. Những xã hội ban sơ phần lớn bao gồm những người săn bắn và thu lượm hoa quả. Nguồn thức ăn chính yếu của họ là cá hồi. Con người sống vào thời gian này ở ở khu vực này thường sống trong những căn nhà đơn sơ, nhỏ, có hình chữ nhật. Khi dân số của Duyên hải Tây Bắc phát triển, xã hội phân cấp được hình thành.
Năm 1769 nam California bị thực dân Tây Ban Nha chiếm và thiết lập các tiền đồn để bảo vệ México chống lại các thương buôn người Nga đang tìm cách xâm nhập vào vùng này. Trong vòng một thập niên, có rất nhiều đồn và cơ sở truyền giáo được thiết lập từ San Diego đến Vịnh San Francisco. Người bản thổ Mỹ được tập trung quanh các trạm truyền giáo và được dạy cách làm vườn và làm nông và được truyền giáo Công giáo La Mã. Các chuyến thuyền Tân Anh Cát Lợi đến để buôn bán da và mỡ.
Năm 1824 California trở thành một tiểu bang của Cộng hòa Mexico mới. Giữa năm 1834 và 1836, chính phủ México thế tục hoá các cơ sở truyền giáo, và tiểu bang được chia thành các nông trại lớn. Nhiều nông trại này được di dân từ Hoa Kỳ đến làm chủ. Quyền lực của chính phủ Mexico trên California thì chưa bao giờ vững mạnh. Sau cùng vào năm 1846 người Mỹ nổi loạn và thiết lập Cộng hòa California trước khi họ biết rằng chiến tranh Mỹ-Mexico đã bùng phát. Tháng 1 năm 1848, vàng được tìm thấy trong sỏi đá ở những dòng suối của vùng trung California vào năm 1849 dòng người di dân Mỹ giống như một cơn lũ—cơn sốt vàng bắt đầu. Những người đào vàng đến bằng đường bộ qua eo đất Panama và bằng chuyến hành trình xa quanh Cape Horn. Dân số của California tăng từ 92.000 người vào năm 1850 đến 380.000 vào năm 1860. California trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ vào năm 1850.
Trong khi đó tại Tây Bắc Thái Bình Dương (Washington và Oregon), một nền kinh tế khác đang được phát triển. Vào cuối thế kỷ 18, các thương buôn Nga từ Alaska và những thuyền trưởng Tân Anh Cát Lợi đến đây mua da rái cá biển từ người bản địa châu Mỹ sống dọc ven biển. Các bộ tộc này sống nhờ vào đánh bắt cá hồi và săn bắn. Họ khôn khéo và văn minh hơn người bản thổ Mỹ sống ở miền nam California. Để thương lượng mua bán với họ, năm 1811 những người Mỹ mua bán da thú đã thành lập Astoria ở cửa Sông Columbia. Năm 1825 Công ty Vịnh Hudson nối rộng hệ thống mua bán của họ đến Đồn Vancouver (hiện nay là thành phố Vancouver, Washington) bên bờ bắc Sông Columbia.
Những người mua bán da thú đưa tin về miền đông rằng Thung lũng Willamette của Oregon là xứ đất tốt cho nông nghiệp. Nhóm người định cư lớn đầu tiên theo Đường mòn Oregon mà các người buôn bán da thú khám phá ra để tìm đến Oregon năm 1843. Chủ quyền đối với Xứ Oregon bị tranh chấp với Vương quốc Anh cho đến năm 1846 đường biên giới được định đoạt nằm trên vĩ tuyến 49 độ. Giao thương bằng tàu thuyền ngay sau đó khởi sự cùng với việc định cư của người Mỹ tại California. Nhiều nông trại Oregon mở ra để nuôi các loại bò, cừu, trồng các loại cây ăn quả của California. Trong suốt thời kỳ cơn sốt vàng, thức ăn và lâm sản của Oregon đã tìm được thị trường bền vững tại trung California.